CÔNG CUỘC HUẤN LUYỆN PHAN SINH – NGUỒN HỨNG KHỞI
 
“Bởi vì khi khấn dòng, anh em đã lặp lại việc tận hiến trong phép Thánh tẩy và lời cam kết đi theo Chúa Giêsu, nên anh em phải sống trong tinh thần đền tội và hoán cải liên tục để nên giống Chúa Kitô trong mọi sự, và qua đó được thấm nhuần tình yêu mến của Chúa Kitô đối với Chúa Cha và đối với mọi người”.[1]
          Những phản tỉnh của một nữ tu – bạn tôi thường nhắc nhở tôi. Sơ tâm sự với tôi rằng khi lên đường đi truyền giáo nhiều năm về trước, sơ luôn tin tưởng rằng sự hiện diện của sơ là cần thiết cho mọi người, cho đời sống đức tin và cho cuộc sống của họ ngày càng trở nên tốt hơn. Khi phải rời bỏ sứ vụ vài tháng sau nhiều năm làm việc, sơ nghĩ rằng mình không thể rời bỏ nơi này; sơ phải ở lại nơi này vì những anh chị em nơi đây còn rất ngây thơ và khờ dại và không có sơ thì họ không thể sống được. Tuy nhiên, khi trở lại nơi làm việc sau một thời gian xa cách sơ nhận ra rằng: cuộc sống của anh chị em nơi vùng đất truyền giáo này vẫn diễn ra theo nhịp độ bình thường. Sơ thấy nhịp sống vẫn tiến triển một cách đều đặn, mọi người vẫn ổn định và các hoạt động của anh chị em nơi đây vẫn diễn ra bình thường mà không cần đến sự hỗ trợ từ sơ. Khi đó, sơ mới nhận ra: “Thiên Chúa gửi cho tôi một thông điệp rằng sứ vụ tôi đang thi hành chủ yếu để tôi sống ơn gọi của chính mình, của sự hoán cải mà tôi đang cố gắng sống mỗi ngày, lý do là vì những người dân bản địa này vẫn sống tốt dù tôi có ở với họ hay không”.
          Tôi tin rằng điều này đã chạm đến một đặc điểm cốt lõi trong đời sống của những người Anh em Hèn mọn chúng ta. Mỗi nhiệm vụ được giao, mỗi sứ vụ thi hành, mỗi nơi chốn mà chúng ta làm việc chủ yếu vì ơn gọi của chúng ta, và cho đời sống hoán cải của chúng ta. Đó là môi trường duy nhất giúp chúng ta hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa Tối Cao, mở lòng mình ra để cho Ngài tác động, rồi mau mắn thi hành thánh ý Chúa muốn chúng ta thực hiện. Lẽ dĩ nhiên, thật lý tưởng biết bao nếu chúng ta nhiệt thành tham gia vào sứ vụ tông đồ, hay có khả năng kiến tạo những hoạt động tông đồ khác liên quan đến hoạt động bác ái và mục vụ, hoặc làm triển nở thêm các công việc mục vụ chúng ta đang duy trì. Dẫu vậy, chúng ta nên ghi nhớ rằng trọng tâm đời sống của anh em chúng ta là theo đuổi con đường hoàn thiện dựa trên đời sống hoán cải. Nhờ đó, chúng ta có thể kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa hơn, thuộc trọn về Ngài để không ngừng thi hành thánh ý của Ngài trong cuộc đời chúng ta.Vì thế, đây là vấn đề liên quan đến việc chúng ta thực hành đời sống hoán cải.
          Sám hối là yếu tố cốt yếu thuộc về căn tính của người kitô hữu. Nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chuỗi gien di truyền (DNA) của đặc sủng Phan Sinh. Chúng ta thường liên hệ hành vi sám hối với điều gì đó gây khó chịu, chẳng hạn như: những hình thức khổ chế bề ngoài, chay tịnh, thực hành một số nghi thức mà ngày nay coi là cổ xưa như (đánh tội, mặc áo nhặm, hãm mình trong việc ăn uống…). Tuy nhiên, tất cả các hành động bên ngoài, dù quan trọng và hữu ích, nhưng chúng chỉ là thứ yếu trong kinh nghiệm hoán cải của người Phan Sinh. Thánh Phanxicô ý thức được rằng bản thân muốn sống đời đền tội theo cách thế của Tin Mừng. 
          Kinh Thánh trình bày hành vi sám hối qua hạn từ “metanoia”, nghĩa là một cuộc hành trình mà trong đó con người bày tỏ sự ăn năn thống hối để tiến lại gần Thiên Chúa hơn. Do đó, sám hối là một hành trình tâm linh lên cùng Thiên Chúa, cụ thể qua việc hối nhân thay đổi hành vi cá nhân cho thích hợp với thánh ý của Thiên Chúa Tối Cao và sống các giới răn của Ngài. Hành vi này mời gọi con người duy trì một đời sống công chính, làm lành và lánh dữ. Theo nhãn quan Kinh Thánh, bản chất thực sự của hành vi sám hối, là tâm hồn hối nhân thực sự ước mong gắn bó với Thiên Chúa và khát mong được yêu mến Ngài. Còn trong Tân Ước, sám hối được thực hiện bắt đầu với Bí tích Thánh tẩy và được mô tả như một nhân đức, tức là khi hối nhân lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, một ân huệ đổi mới con người khi họ thực lòng sám hối ăn năn.[2]
          Người Cha Chí Ái đã thực hiện hành vi sám hối theo cách này: ngài học cách nhận biết chính mình rằng bản thân có khuynh hướng phạm tội và quy về chính mình, nhưng nhờ ân sủng của Thiên Chúa, thánh nhân sống một cuộc đời tận hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Ngài. Vì thế, thánh Phanxicô mong muốn những anh em bước theo ngài trước tiên phải thực hành hoán cải, và sinh hoa trái xứng với lòng hoán cải. Ngược lại, ngài tin rằng điều này sẽ dẫn anh em của ngài vào con đường yêu mến Thiên Chúa và phục vụ người thân cận trong tinh thần yêu thương. Trong bản Di Chúc, thánh nhân viết: “Chúa đã ban cho tôi là anh Phanxicô, bắt đầu cuộc đời hoán cải như thế này: khi còn sống trong tội lỗi, mỗi lần trông thấy người phong, tối lấy làm cay đắng lắm. Nhưng chính Chúa dẫn tôi đến với họ và tôi đã tỏ lòng thương xót họ”.[3] Vị Hiền Phụ Sốt Mến đã để lại cho anh em của ngài một lối sống, trong đó, ngài mời gọi anh em chúng ta hãy quên mình để phụng sự Thiên Chúa và tha nhân, nhất là phục vụ những người bị bỏ rơi và bị khinh miệt. Chúng ta là những anh em sống đời đền tội thành Assisi: Đây chính là cách mà thánh Phanxicô và những anh em tiên khởi đã tự giới thiệu về bản thân mình.[4] Tại nơi mà những anh em tiên khởi đã sống và những thành quả họ đạt được đều rất quan trọng nhưng trở nên thứ yếu trong đời sống của họ. Điều trước hết và quan trọng nhất là họ phải “trổ sinh hoa trái xứng với lòng hoán cải” (x. Lc 3,8).[5] Thánh Phanxicô còn dạy các anh em của ngài rằng: “Nhưng ở bất cứ nơi nào, nếu người ta không tiếp nhận anh em, thì anh em hãy trốn đi nơi khác mà sống đời hoán cải, với phép lành của Thiên Chúa.[6] Bởi vì lối sống của các anh em trở nên quan trọng hơn việc sống ở đâu. Và chính vì điều này dẫn đến giai đoạn thứ hai trên cuộc hành trình giúp anh em luôn quy hướng đời mình vào Thiên Chúa, đó là trở thành những nhà truyền giáo cách rất tự nhiên. Điều này bao gồm việc loan báo Tin Mừng (bằng lời nói và bằng chính đời sống của anh em) và loan báo cho mọi người sự cần thiết phải sám hối bằng nhiều cách khác nhau. Trước tiên đòi hỏi những anh em sống đời đền tội thành Assisi phải điều chỉnh lối sống của mình sao cho phù hợp với những gì họ rao giảng. Từ đó, các anh em có thể sống giữa đời để chia sẻ cho mọi người về trải nghiệm tâm linh của bản thân. Chính anh em đã bắt đầu tham gia một cuộc hành trình, mà trong đó việc anh em trải nghiệm sống đời hoán cải thực sự trở thành con đường tâm linh hướng anh em lên cùng Thiên Chúa.
          Một trong những yếu tố cốt lõi của đời sống hoán cải Phan Sinh là vâng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Trước tiên là qua tác động thánh của Ngài con người nhận thức được rằng họ cần thực hành khổ chế và từ bỏ bản thân. Thứ hai, chủ nghĩa khổ hạnh xuất hiện như một phương thế giúp một cá nhân có khả năng khuất phục thân xác và ý chí của mình. “Sống đời đền tội” giúp giải thoát chúng ta khỏi tính kiêu ngạo và ánh sáng của đời sống hoán cải giúp chúng ta  nhận ra sự thật về bản thân hơn cũng như tìm ra cách thức vượt qua cám dỗ và đam mê. Do đó, đây là một cuộc hành trình thiêng liêng mà hối nhân nhận ra con người thật của mình và trước mặt Thiên Chúa sự thật về sự yếu đuối của bản thân. Nhờ thế, chúng ta sẽ cố gắng chịu đựng nghịch cảnh một cách kiên nhẫn và cố gắng tìm kiếm sự bình an trong tâm hồn để có thể chia sẻ kinh nghiệm quý báu ấy với người khác. Chúng ta cũng duy trì lòng kính sợ Thiên Chúa để không ngừng tìm kiếm thánh ý Ngài. Chúng ta cũng cưỡng lại những điều đang nổi loạn trong lòng khi có ý muốn chống lại Thiên Chúa.
          Con đường sống đời đền tội đương nhiên hướng chúng ta đến hành vi thú nhận tội lỗi mình qua kinh nghiệm lãnh nhận Bí tích Hoà giải. Tất cả những điều kể trên được thực hiện nhằm bày tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa và hiến toàn thân mình để phụng sự Người. Cuối cùng, việc bố thí, cầu nguyện, chay tịnh và những hình thức khổ chế và từ bỏ khác nhau trở nên dưỡng chất tự nhiên, hỗ trợ và thánh hoá đời sống của chúng ta.[7] Theo lời huấn dụ của thánh Phanxicô, nếu chúng ta không sống tinh thần hoán cải thì những phương thế thực hành bề ngoài không thể giúp người anh em có thể thay đổi bản thân, người anh em của chúng ta dễ trở nên kích động khi nghe một ý kiến nào đó không tốt về mình, hay khi người anh em bị tước đoạt một thứ gì đó.[8] Do đó, mục đích được đề ra ở đây không phải là việc chúng ta thực hành khổ chế bề ngoài mà thôi, nhưng là thủ đắc những nhân đức cần thiết giúp chúng ta biến đổi từ bên trong và không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa. Những nhân đức này, Theo cung cách sống của người Anh em Hèn mọn thì những nhân đức này sẽ trổ sinh hoa trái qua một đời sống cầu nguyện sâu sắc, giản dị, sự kiên nhẫn, tinh thần tha thứ trước những thiếu sót hay sự bách hại mà chúng ta có thể gặp phải. Vì vậy, cho dù chúng ta làm việc gì hay ở đâu để thi hành sứ vụ tông đồ, thì thời điểm và nơi chốn thích hợp để chúng ta sống đời đền tội là ở đây và lúc này.
          Nhìn lại những suy niệm tôi vừa trình bày, chúng ta hãy tự hỏi: Chúng ta phải nỗ lực đến mức độ nào để thủ đắc được tinh thần của những anh em tiên khởi khi chúng ta mong muốn sống đời đền tội? Chúng ta có nên khẩn cầu cùng Chúa Thánh Thần ban ơn để chúng ta có khả năng sống đời hoán cải hay không? Sự sám hối thể hiện như thế nào trong cuộc sống và trong các mối tương quan của chúng ta với anh em mình? Có lẽ có những anh em mà chúng ta vẫn còn oán giận và không thể tha thứ? Chúng ta có tập chú quá nhiều vào sứ vụ của bản thân và sự hoán cải của người khác, mà quên mất nhu cầu phải thay đổi chính mình hay không?
Fr. Pior Stanislawczyk, OFMConv.
Tổng thư ký đặc trách huấn luyện
 
Nguồn: 
https://www.ofmconv.net/en/siamo-dei-penitenti-di-assisi/
Chuyển ngữ: Giuse Lê Phạm Viết Hoàng, OFMConv. 

[1] Hiến chương (2019), số 50, §1.
[2] Xc. Leon-Dufor X., Słownik teologii biblijnej, Poznań 1994, pp. 705-713.
[3] Di Chúc, cc. 1-2.
[4] Xc. Legend of the Three Companions 37 FF 1441; Anonymous of Perugia 19 FF 109.
[5] Xc. Thư II gửi các tín hữu, c. 25; Đường hướng huấn luyện, số 190.
[6] Di Chúc, c. 26; Đường hướng huấn luyện, số 123.
[7] Xc. Raffaele Pazzelli, TOR, Pokuta, in: Leksykon duchowości franciszkańskiej, edited by Emil Kumka, OFM Conv., Cracow-Warsaw 2016, pp. 1352-1350.
[8] Xc. Huấn Ngôn 14; Đường hướng huấn luyện, số 163.