CÔNG CUỘC HUẤN LUYỆN PHAN SINH – NGUỒN HỨNG KHỞI
“Theo giáo huấn của Hội Thánh, việc liên hệ và trao đổi giữa các nền văn hoá, là những giá trị có thể làm giàu cho đời sống huynh đệ. Vì thế tất cả các anh em, trong khi vẫn ý thức về căn tính của mình, sẽ tiếp nhận sự phong phú đa dạng của các nền văn hoá và truyền thống tôn giáo khác nhau, đồng thời khích lệ việc gặp gỡ và đối thoại giữa các thực thể ấy”.[1]
Có lần tôi đã chăm chú lắng nghe lời bình luận của một hướng dẫn viên du lịch trong một viện bảo tàng. Anh ấy dẫn du khách tham quan hết một vòng khu vực trưng bày những hiện vật liên quan đến lịch sử và văn hoá của đất nước, và anh cất tiếng hỏi du khách trong nhóm mình rằng: “Các bạn nghĩ thế nào là một công dân yêu nước?” Cả nhóm đều im bặt. Anh hướng dẫn viên tiếp tục gợi ý câu trả lời cho câu hỏi vừa đặt ra: “Mỗi chúng ta sinh ra, lớn lên và trưởng thành ở một nơi chốn xác định: trong gia đình, nơi làng quê, trong một vùng lãnh thổ hoặc khu vực cụ thể nào đó. Mảnh đất nơi mà chúng ta sinh ra, được gọi là quê hương. Đó chính là nơi mà chúng ta được lớn lên, là nơi khởi đầu cho những mối tương quan: với cha mẹ, gia đình, bạn bè và hàng xóm láng giềng. Họ cùng với chúng ta chung sống với nhau trên một mảnh đất được gọi là đất nước chúng ta. Chúng ta học ngôn ngữ mẹ đẻ, học các giá trị tinh thần, truyền thống và phong tục tập quán từ những con người ấy. Chúng ta cũng tìm hiểu về tôn giáo, lịch sử và văn hoá của quốc gia. Vì vậy, chúng ta có thể nói: một công dân yêu nước là một người yêu mảnh đất nơi mình sinh ra, lớn lên và là người luôn quan tâm đến quê hương của mình”.
Tôi cảm thấy rất ấn tượng với lời phát biểu của anh hướng dẫn viên du lịch trong lần gặp gỡ đó, trong đầu tôi liền tôi loé lên một câu hỏi: “Một Anh em Hèn mọn Viện tu có cần thiết để trở thành một công dân yêu nước hay không? Vùng đất nơi chúng ta xuất thân, quốc gia, nền văn hoá và phong tục tập quán ảnh hưởng như thế nào đến việc chúng ta thi hành sứ vụ và đời sống huynh đệ đoàn?
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo trình bày tình yêu dân tộc như một nghĩa vụ bắt nguồn từ điều răn thứ tư trong Mười điều răn của Chúa: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (x. Xh 20,12).[2] Chúng ta là những Anh em Hèn mọn Viện tu. Chúng ta không đến từ mặt trăng, vì thế, cũng như mọi người, chúng ta được sinh ra, được sống và được lớn lên ngay trên quê hương của mình. Giống như tất cả các kitô hữu, chúng ta được mời gọi không ngừng vun trồng những giá trị về lòng yêu nước. Chúng ta thực hiện điều này bằng cách duy trì mối liên hệ với đất nước của mình, đồng thời tìm hiểu về lịch sử, văn hoá và truyền thống dân tộc. Khi chúng ta yêu mến và giữ gìn quê hương tổ quốc, chúng ta được bén rễ và cắm sâu vào với chính cội nguồn của mình. Nhờ đó, chúng ta nhận thức rõ ràng về căn tính dân tộc nơi chúng ta thuộc về, và chúng ta biết làm gì và làm thế nào để có thể chia sẻ căn tính mà chúng ta mang trong mình cho người khác, với các anh em trong cộng đoàn và với những người mà chúng ta được sai đến để phục vụ.[3]
Khi nghĩ về lòng yêu nước và sự đa dạng, chúng ta nhận thấy hai khuynh hướng đối lập (cũng có thể là những cám dỗ): “chủ nghĩa dân tộc” và “chủ nghĩa đại đồng”. Về cơ bản, “chủ nghĩa dân tộc” là sự công nhận đất nước (nơi tôi sinh trưởng) là trên hết. Đó là sự tin tưởng rằng đất nước tôi trổi vượt hơn mọi đất nước khác, phong tục tập quán và văn hóa của đất nước tôi khôn ngoan và cao quý hơn, và chỉ đất nước tôi mới đủ khả năng thực thi một vài sứ mệnh nào đó… Sống theo chủ nghĩa dân tộc, chúng ta nhận thấy bản thân chỉ biết bám chặt vào quê hương, nhưng chúng ta lại thiếu động lực để lên đường loan báo Tin Mừng đến những vùng đất mới, quốc gia mới. Chúng ta dễ bị cuốn vào những cuộc cạnh tranh chính trị và ủng hộ cho một số đảng phái nào đó. Chúng ta thường cảm thấy khó khăn khi thực hiện công việc truyền giáo ở những nơi có ngôn ngữ, ẩm thực, phong tục và văn hoá khác nhau, bởi vì việc ở quê hương sở tại khiến chúng ta cảm thấy dễ chịu và thoải mái hơn nhiều. “Chủ nghĩa dân tộc” cũng có thể len lỏi và hiện hiện rất kín ẩn trong đời sống huynh đệ của chúng ta. Hơn thế nữa, ở trong những môi trường đặc thù như tu viện, giáo xứ, Tỉnh Dòng, hay các anh em đến từ những quốc gia khác nhau (ngay cả các anh em xuất thân từ những vùng miền khác nhau trong cùng một quốc gia) có thể cũng thiếu sự tôn trọng, tin tưởng hay thiếu sự đồng cảm. Các anh em này không được phép đảm nhận một số trách nhiệm cụ thể hay có cơ hội để chia sẻ nét văn hoá của họ. Cũng chẳng có ai muốn tìm cách để hiểu những anh em này khi họ muốn bày tỏ nét văn hoá đặc thù của họ hay khi họ gặp khó khăn trong việc thể hiện nét văn hoá ấy. Trong công tác mục vụ của chúng ta, chúng ta có thể hạn chế những quyền của người di dân trong việc duy trì những nét hoá truyền thống dân tộc và các lễ nghi tôn giáo, giáo lý và cách thức cầu nguyện, cũng như việc cử hành thánh lễ theo ngôn ngữ bản địa của những anh em này.[4]
Vì thế, có vẻ như một Anh em Mèn mọn Viện tu trước hết là một người theo “chủ nghĩa đại đồng”, nghĩa là anh em đó nên có cảm thức rằng thế giới này là quê hương của tôi. Tuy nhiên, điều này dễ dẫn chúng ta đến một cám dỗ khác, đó là chúng ta trở thành công dân toàn cầu nhưng lại không thừa nhận bất kỳ truyền thống, giá trị, phong tục tập quán hay nét văn hoá đặc thù nào. Trong trường hợp này, giá trị chính của chủ nghĩa đại đồng là thoát khỏi mọi ràng buộc của chủ nghĩa dân tộc và có thể chấp nhận bất cứ điều gì. Quan điểm về một thế giới đại đồng hình thành nên một thái độ tự do: điều gì tốt đẹp, điều gì phù hợp hay không phù hợp đều mang tính tương đối và có thể thay đổi được thông qua hệ thống luật pháp, các chuẩn mực đạo đức cũng có thể được sửa đổi, và chúng thúc đẩy một số lối sống đặc thù… Đôi khi, cũng chính trong bối cảnh của chủ nghĩa đại đồng này mà nảy sinh sự khinh miệt đối với quê hương của mình hoặc đối với những nơi khác mà mình có mối liên hệ; có lẽ điều này nảy sinh từ nỗi sợ thuộc về một nơi chốn nhất định nào đó. Dường như những người có chủ trương vươn mình ra thế giới thường có một động lực thúc đẩy mạnh mẽ khiến họ mong muốn chuyển đến một nơi khác, rời xa tổ ấm yêu thương, nhằm mưu cầu một cuộc sống tốt đẹp nơi vùng đất mới. Tuy vậy, chúng ta cũng đừng mong đợi những người có chủ trương hướng ra thế giới sẽ dấn thân cách không mệt mỏi cho quốc gia nơi họ đến sống và làm việc. Vì anh ta trải nghiệm mọi nơi trên trên thế giới theo cùng một cách thức mà anh ấy đã thực hiện nơi quê hương của mình. Mọi nơi anh đến sinh sống và làm việc đều là quê hương. Lẽ ra nơi anh sinh sống và làm việc là quê hương nhưng thực ra không phải vậy. Trên thực tế, anh ta thiếu khả năng bén rễ sâu, thiếu điểm quy chiếu là bản sắc dân tộc. Chính vì mang tâm thức đó nên dường như anh ta không nhận thức được giá trị xứng đáng của nền văn hoá nơi anh ta xuất thân, mà đáng lý ra anh nên mang theo làm hành trang trong suốt cuộc hành trình vòng quanh thế giới, và rằng bản sắc dân tộc là một món quà tuyệt vời mà anh nên tỏ bày với bè bạn khắp năm châu.[5]
Sự trưởng thành đòi hỏi mỗi người trong chúng ta phải vừa có thái độ đặc thù trong việc bám rễ sâu vào trong truyền thống và một đôi cánh mạnh mẽ để vươn mình ra với thế giới đại đồng. Điều này có nghĩa là một người Anh em Hèn mọn phải ý thức rõ ràng đâu là quê hương của mình, nhưng đồng thời người anh em đó cũng có khả năng bước ra khỏi lãnh thổ của mình để loan báo Tin Mừng. Thiên Chúa sai chúng ta lên đường đến những vùng đất mới và khi chúng ta hiện diện và phục vụ ở đó, nơi đó trở thành quê hương mới của chúng ta. Và cứ như thế, theo dòng thời gian, mối liên hệ của chúng ta với quê hương đất nước giảm dần và thay vào đó chúng ta bắt đâu có cảm tình với nơi chúng ta đang dấn thân phục vụ hơn. Thông thường, những anh em có kinh nghiệm truyền giáo chia sẻ rằng mặc dù anh em yêu mến quê hương của mình, nhưng khi về già họ vẫn khát khao được ở lại chính nơi mà anh em đã dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa sau nhiều năm phục vụ. Đôi khi ở một đất nước mới chúng ta cảm thấy có một cảm giác trống rỗng nào đó trong việc xác định quê hương mà chúng ta yêu thích thực sự ở đâu. Chính nơi mảnh đất mà anh em dấn thân cho sứ vụ, đôi lúc chúng ta cảm thấy bản thân như vị khách lạ nơi đất khách quê người. Cũng vậy, ngay trên quê hương xứ sở của mình, có những khi chúng ta cũng cảm thấy bản thân ngày càng trở nên người xa lạ với các anh em cùng cộng tác phục vụ trên quê hương của mình, hay đối với các thành viên trong gia đình của mình, đặc biệt là sau khi cha mẹ đã qua đời.
Vị Hiền Phụ Sốt Mến có gợi ý gì cho chúng ta về chủ đề này? Chính thánh nhân đã đi khắp đó đây để rao giảng Phúc Âm và mời gọi mọi người hoán cải và sống đời đền tội. Đối với ngài, thế giới là ngôi nhà chung mà chính Đấng Hoá Công đã ban tặng cho ngài và cho hết thảy mọi người. Tuy nhiên, thánh Phanxicô không phải là người theo chủ nghĩa đại đồng, nhưng ngài là một nhà truyền giáo lưu động. Trước tiên, thánh nhân loan báo Tin Mừng tại thành phố Assisi và những vùng lân cận, rồi sau đó tiến ra xa hơn đến những vùng có những nền văn hoá và tôn giáo hoàn toàn khác biệt. Những Anh Tổng Phục Vụ kế vị ngài cũng bước theo con đường đó, khi sai anh em ra đi đến mọi nơi trên khắp thế giới. Có thể nói rằng quê hương của thánh Phanxicô và các anh em là Giáo hội. Tuy nhiên, người nghèo thành Assisi cũng gắn bó khăng khít với quê hương bé nhỏ của mình. Vào cuối đời, ngài ước mong được chết ở nơi mà ngài yêu quý. Trên đường trở về Portiuncula, ngài xin anh em khiêng cáng cho ngài dừng lại chốc lát để ngài có thể chúc lành cho thành phố Assisi thân yêu. Một điều rất thú vị trong lời chúc lành là khi thánh Phanxicô biết được trong thành phố còn nhiều người sống theo đường gian ác và tội lỗi, ngài tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa rủ lòng thương xót họ. Đồng thời, thánh nhân cũng dâng lời chúc tụng và tôn vinh Thiên Chúa đã khiến cho thành phố Assisi trở thành nơi nương náu và là ngôi nhà cho những anh em bước theo lối sống của ngài và tham gia vào sứ vụ loan báo Tin Mừng.[6]
Noi gương vị Hiền Phụ Sốt Mến Phanxicô, mỗi chúng ta cũng xuất thân từ những quê hương khác nhau. Quê hương của chúng ta không chỉ hệ tại ở vị trí địa lý, mà còn về mặt tinh thần. Với cảm thức này, quê hương đích thực của chúng ta là Giáo Hội, là Hội Dòng, là tu viện nơi chúng ta đang sống. Ở nơi đó, có cả những anh em sống thánh thiện, nhưng cũng chẳng thiếu những anh em sống theo kiểu thế gian. Mỗi nơi đều lưu giữ những kỉ niệm thật tuyệt vời nhưng cũng không thiếu những chuyện đáng xấu hổ. Người Anh em Hèn mọn Viện tu sống theo “chủ nghĩa yêu nước” là các anh em có lối sống thực tế và tinh thần cầu nguyện liên lỷ. “Sống thực tế” để anh em có khả năng chấp nhận những vấn đề đã và đang tồn tại là những điều tốt và những điều xấu. Lối sống này giúp chúng ta nhận ra những thói xấu và những nhân đức mà chúng ta thụ hưởng từ môi trường gia đình, quốc gia và tôn giáo của mình, cũng như giúp chúng ta nhận ra những điều có khả năng sinh ích trong đời sống huynh đệ đoàn và những nguy cơ cần tránh. “Tinh thần cầu nguyện liên lỷ”, hướng đến những nhà lãnh đạo quê hương của chúng ta (cả về mặt tâm linh cũng như đời sống xã hội), những người đang phục vụ trong các cơ cấu tổ chức đó và tất cả mọi người dân trên mảnh đất đó đều cần đến những lời cầu nguyện và lời chúc lành của chúng ta.
Bất kể nguồn gốc xuất thân, mang quốc tịch hay thuộc chủng tộc nào, hãy luôn ghi nhớ rằng chúng ta đều là con cùng một Cha Trên Trời. Chính vì thế, chúng ta đều là anh chị em với nhau. Mỗi chúng ta đều có những điểm khác biệt nên chẳng có bất cứ lý do gì khiến chúng ta nghĩ rằng mọi người đều giống như nhau cả. Các cộng đoàn trong Hội Dòng chúng ta đã, đang và sẽ luôn là những cộng đoàn đa văn hoá. Chúng ta cũng có nhiều cộng đoàn quốc tế. Và những cộng đoàn khác, tuy bao gồm những anh em trong cùng một quốc gia, nhưng vẫn có sự khác biệt về văn hoá. Những tu viện này là những anh em đến từ những vùng miền khác nhau trong cùng một quốc gia hay thuộc về những nhóm xã hội khác nhau. Tại các tu viện, chúng ta trải nghiệm với sự khác biệt của từng anh em khi sống chung với nhau: bên cạnh những nét văn hoá và phong tục tập quán, mỗi anh em có cung cách ứng xử và phong tục khác nhau, gu ẩm thực và khiếu thẩm mỹ, yêu thích những câu lạc bộ thể thao khác nhau, còn nhiều thứ khác nữa. Chất keo kết dính sự khác biệt trong huynh đệ đoàn chúng ta là chính Tin Mừng. Do đó, chúng ta xác tín cách chắc chắn rằng bất kỳ điều gì đi ngược lại với các giá trị của Tin Mừng, của các giới răn, Luật và Hiến chương thì không thể biện minh cho bản thân rằng đó là do sự khác biệt bởi một nền văn hoá hay phong tục tập quán đặc thù được. Dẫu vậy, khi chúng ta sống với nhau, chúng ta có cơ hội chia sẻ và đón nhận những gì mà anh em khác mang đến cho huynh đệ đoàn với một thái độ tôn trọng và thấu hiểu.[7]
Tôi cảm thấy rất ấn tượng với lời phát biểu của anh hướng dẫn viên du lịch trong lần gặp gỡ đó, trong đầu tôi liền tôi loé lên một câu hỏi: “Một Anh em Hèn mọn Viện tu có cần thiết để trở thành một công dân yêu nước hay không? Vùng đất nơi chúng ta xuất thân, quốc gia, nền văn hoá và phong tục tập quán ảnh hưởng như thế nào đến việc chúng ta thi hành sứ vụ và đời sống huynh đệ đoàn?
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo trình bày tình yêu dân tộc như một nghĩa vụ bắt nguồn từ điều răn thứ tư trong Mười điều răn của Chúa: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (x. Xh 20,12).[2] Chúng ta là những Anh em Hèn mọn Viện tu. Chúng ta không đến từ mặt trăng, vì thế, cũng như mọi người, chúng ta được sinh ra, được sống và được lớn lên ngay trên quê hương của mình. Giống như tất cả các kitô hữu, chúng ta được mời gọi không ngừng vun trồng những giá trị về lòng yêu nước. Chúng ta thực hiện điều này bằng cách duy trì mối liên hệ với đất nước của mình, đồng thời tìm hiểu về lịch sử, văn hoá và truyền thống dân tộc. Khi chúng ta yêu mến và giữ gìn quê hương tổ quốc, chúng ta được bén rễ và cắm sâu vào với chính cội nguồn của mình. Nhờ đó, chúng ta nhận thức rõ ràng về căn tính dân tộc nơi chúng ta thuộc về, và chúng ta biết làm gì và làm thế nào để có thể chia sẻ căn tính mà chúng ta mang trong mình cho người khác, với các anh em trong cộng đoàn và với những người mà chúng ta được sai đến để phục vụ.[3]
Khi nghĩ về lòng yêu nước và sự đa dạng, chúng ta nhận thấy hai khuynh hướng đối lập (cũng có thể là những cám dỗ): “chủ nghĩa dân tộc” và “chủ nghĩa đại đồng”. Về cơ bản, “chủ nghĩa dân tộc” là sự công nhận đất nước (nơi tôi sinh trưởng) là trên hết. Đó là sự tin tưởng rằng đất nước tôi trổi vượt hơn mọi đất nước khác, phong tục tập quán và văn hóa của đất nước tôi khôn ngoan và cao quý hơn, và chỉ đất nước tôi mới đủ khả năng thực thi một vài sứ mệnh nào đó… Sống theo chủ nghĩa dân tộc, chúng ta nhận thấy bản thân chỉ biết bám chặt vào quê hương, nhưng chúng ta lại thiếu động lực để lên đường loan báo Tin Mừng đến những vùng đất mới, quốc gia mới. Chúng ta dễ bị cuốn vào những cuộc cạnh tranh chính trị và ủng hộ cho một số đảng phái nào đó. Chúng ta thường cảm thấy khó khăn khi thực hiện công việc truyền giáo ở những nơi có ngôn ngữ, ẩm thực, phong tục và văn hoá khác nhau, bởi vì việc ở quê hương sở tại khiến chúng ta cảm thấy dễ chịu và thoải mái hơn nhiều. “Chủ nghĩa dân tộc” cũng có thể len lỏi và hiện hiện rất kín ẩn trong đời sống huynh đệ của chúng ta. Hơn thế nữa, ở trong những môi trường đặc thù như tu viện, giáo xứ, Tỉnh Dòng, hay các anh em đến từ những quốc gia khác nhau (ngay cả các anh em xuất thân từ những vùng miền khác nhau trong cùng một quốc gia) có thể cũng thiếu sự tôn trọng, tin tưởng hay thiếu sự đồng cảm. Các anh em này không được phép đảm nhận một số trách nhiệm cụ thể hay có cơ hội để chia sẻ nét văn hoá của họ. Cũng chẳng có ai muốn tìm cách để hiểu những anh em này khi họ muốn bày tỏ nét văn hoá đặc thù của họ hay khi họ gặp khó khăn trong việc thể hiện nét văn hoá ấy. Trong công tác mục vụ của chúng ta, chúng ta có thể hạn chế những quyền của người di dân trong việc duy trì những nét hoá truyền thống dân tộc và các lễ nghi tôn giáo, giáo lý và cách thức cầu nguyện, cũng như việc cử hành thánh lễ theo ngôn ngữ bản địa của những anh em này.[4]
Vì thế, có vẻ như một Anh em Mèn mọn Viện tu trước hết là một người theo “chủ nghĩa đại đồng”, nghĩa là anh em đó nên có cảm thức rằng thế giới này là quê hương của tôi. Tuy nhiên, điều này dễ dẫn chúng ta đến một cám dỗ khác, đó là chúng ta trở thành công dân toàn cầu nhưng lại không thừa nhận bất kỳ truyền thống, giá trị, phong tục tập quán hay nét văn hoá đặc thù nào. Trong trường hợp này, giá trị chính của chủ nghĩa đại đồng là thoát khỏi mọi ràng buộc của chủ nghĩa dân tộc và có thể chấp nhận bất cứ điều gì. Quan điểm về một thế giới đại đồng hình thành nên một thái độ tự do: điều gì tốt đẹp, điều gì phù hợp hay không phù hợp đều mang tính tương đối và có thể thay đổi được thông qua hệ thống luật pháp, các chuẩn mực đạo đức cũng có thể được sửa đổi, và chúng thúc đẩy một số lối sống đặc thù… Đôi khi, cũng chính trong bối cảnh của chủ nghĩa đại đồng này mà nảy sinh sự khinh miệt đối với quê hương của mình hoặc đối với những nơi khác mà mình có mối liên hệ; có lẽ điều này nảy sinh từ nỗi sợ thuộc về một nơi chốn nhất định nào đó. Dường như những người có chủ trương vươn mình ra thế giới thường có một động lực thúc đẩy mạnh mẽ khiến họ mong muốn chuyển đến một nơi khác, rời xa tổ ấm yêu thương, nhằm mưu cầu một cuộc sống tốt đẹp nơi vùng đất mới. Tuy vậy, chúng ta cũng đừng mong đợi những người có chủ trương hướng ra thế giới sẽ dấn thân cách không mệt mỏi cho quốc gia nơi họ đến sống và làm việc. Vì anh ta trải nghiệm mọi nơi trên trên thế giới theo cùng một cách thức mà anh ấy đã thực hiện nơi quê hương của mình. Mọi nơi anh đến sinh sống và làm việc đều là quê hương. Lẽ ra nơi anh sinh sống và làm việc là quê hương nhưng thực ra không phải vậy. Trên thực tế, anh ta thiếu khả năng bén rễ sâu, thiếu điểm quy chiếu là bản sắc dân tộc. Chính vì mang tâm thức đó nên dường như anh ta không nhận thức được giá trị xứng đáng của nền văn hoá nơi anh ta xuất thân, mà đáng lý ra anh nên mang theo làm hành trang trong suốt cuộc hành trình vòng quanh thế giới, và rằng bản sắc dân tộc là một món quà tuyệt vời mà anh nên tỏ bày với bè bạn khắp năm châu.[5]
Sự trưởng thành đòi hỏi mỗi người trong chúng ta phải vừa có thái độ đặc thù trong việc bám rễ sâu vào trong truyền thống và một đôi cánh mạnh mẽ để vươn mình ra với thế giới đại đồng. Điều này có nghĩa là một người Anh em Hèn mọn phải ý thức rõ ràng đâu là quê hương của mình, nhưng đồng thời người anh em đó cũng có khả năng bước ra khỏi lãnh thổ của mình để loan báo Tin Mừng. Thiên Chúa sai chúng ta lên đường đến những vùng đất mới và khi chúng ta hiện diện và phục vụ ở đó, nơi đó trở thành quê hương mới của chúng ta. Và cứ như thế, theo dòng thời gian, mối liên hệ của chúng ta với quê hương đất nước giảm dần và thay vào đó chúng ta bắt đâu có cảm tình với nơi chúng ta đang dấn thân phục vụ hơn. Thông thường, những anh em có kinh nghiệm truyền giáo chia sẻ rằng mặc dù anh em yêu mến quê hương của mình, nhưng khi về già họ vẫn khát khao được ở lại chính nơi mà anh em đã dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa sau nhiều năm phục vụ. Đôi khi ở một đất nước mới chúng ta cảm thấy có một cảm giác trống rỗng nào đó trong việc xác định quê hương mà chúng ta yêu thích thực sự ở đâu. Chính nơi mảnh đất mà anh em dấn thân cho sứ vụ, đôi lúc chúng ta cảm thấy bản thân như vị khách lạ nơi đất khách quê người. Cũng vậy, ngay trên quê hương xứ sở của mình, có những khi chúng ta cũng cảm thấy bản thân ngày càng trở nên người xa lạ với các anh em cùng cộng tác phục vụ trên quê hương của mình, hay đối với các thành viên trong gia đình của mình, đặc biệt là sau khi cha mẹ đã qua đời.
Vị Hiền Phụ Sốt Mến có gợi ý gì cho chúng ta về chủ đề này? Chính thánh nhân đã đi khắp đó đây để rao giảng Phúc Âm và mời gọi mọi người hoán cải và sống đời đền tội. Đối với ngài, thế giới là ngôi nhà chung mà chính Đấng Hoá Công đã ban tặng cho ngài và cho hết thảy mọi người. Tuy nhiên, thánh Phanxicô không phải là người theo chủ nghĩa đại đồng, nhưng ngài là một nhà truyền giáo lưu động. Trước tiên, thánh nhân loan báo Tin Mừng tại thành phố Assisi và những vùng lân cận, rồi sau đó tiến ra xa hơn đến những vùng có những nền văn hoá và tôn giáo hoàn toàn khác biệt. Những Anh Tổng Phục Vụ kế vị ngài cũng bước theo con đường đó, khi sai anh em ra đi đến mọi nơi trên khắp thế giới. Có thể nói rằng quê hương của thánh Phanxicô và các anh em là Giáo hội. Tuy nhiên, người nghèo thành Assisi cũng gắn bó khăng khít với quê hương bé nhỏ của mình. Vào cuối đời, ngài ước mong được chết ở nơi mà ngài yêu quý. Trên đường trở về Portiuncula, ngài xin anh em khiêng cáng cho ngài dừng lại chốc lát để ngài có thể chúc lành cho thành phố Assisi thân yêu. Một điều rất thú vị trong lời chúc lành là khi thánh Phanxicô biết được trong thành phố còn nhiều người sống theo đường gian ác và tội lỗi, ngài tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa rủ lòng thương xót họ. Đồng thời, thánh nhân cũng dâng lời chúc tụng và tôn vinh Thiên Chúa đã khiến cho thành phố Assisi trở thành nơi nương náu và là ngôi nhà cho những anh em bước theo lối sống của ngài và tham gia vào sứ vụ loan báo Tin Mừng.[6]
Noi gương vị Hiền Phụ Sốt Mến Phanxicô, mỗi chúng ta cũng xuất thân từ những quê hương khác nhau. Quê hương của chúng ta không chỉ hệ tại ở vị trí địa lý, mà còn về mặt tinh thần. Với cảm thức này, quê hương đích thực của chúng ta là Giáo Hội, là Hội Dòng, là tu viện nơi chúng ta đang sống. Ở nơi đó, có cả những anh em sống thánh thiện, nhưng cũng chẳng thiếu những anh em sống theo kiểu thế gian. Mỗi nơi đều lưu giữ những kỉ niệm thật tuyệt vời nhưng cũng không thiếu những chuyện đáng xấu hổ. Người Anh em Hèn mọn Viện tu sống theo “chủ nghĩa yêu nước” là các anh em có lối sống thực tế và tinh thần cầu nguyện liên lỷ. “Sống thực tế” để anh em có khả năng chấp nhận những vấn đề đã và đang tồn tại là những điều tốt và những điều xấu. Lối sống này giúp chúng ta nhận ra những thói xấu và những nhân đức mà chúng ta thụ hưởng từ môi trường gia đình, quốc gia và tôn giáo của mình, cũng như giúp chúng ta nhận ra những điều có khả năng sinh ích trong đời sống huynh đệ đoàn và những nguy cơ cần tránh. “Tinh thần cầu nguyện liên lỷ”, hướng đến những nhà lãnh đạo quê hương của chúng ta (cả về mặt tâm linh cũng như đời sống xã hội), những người đang phục vụ trong các cơ cấu tổ chức đó và tất cả mọi người dân trên mảnh đất đó đều cần đến những lời cầu nguyện và lời chúc lành của chúng ta.
Bất kể nguồn gốc xuất thân, mang quốc tịch hay thuộc chủng tộc nào, hãy luôn ghi nhớ rằng chúng ta đều là con cùng một Cha Trên Trời. Chính vì thế, chúng ta đều là anh chị em với nhau. Mỗi chúng ta đều có những điểm khác biệt nên chẳng có bất cứ lý do gì khiến chúng ta nghĩ rằng mọi người đều giống như nhau cả. Các cộng đoàn trong Hội Dòng chúng ta đã, đang và sẽ luôn là những cộng đoàn đa văn hoá. Chúng ta cũng có nhiều cộng đoàn quốc tế. Và những cộng đoàn khác, tuy bao gồm những anh em trong cùng một quốc gia, nhưng vẫn có sự khác biệt về văn hoá. Những tu viện này là những anh em đến từ những vùng miền khác nhau trong cùng một quốc gia hay thuộc về những nhóm xã hội khác nhau. Tại các tu viện, chúng ta trải nghiệm với sự khác biệt của từng anh em khi sống chung với nhau: bên cạnh những nét văn hoá và phong tục tập quán, mỗi anh em có cung cách ứng xử và phong tục khác nhau, gu ẩm thực và khiếu thẩm mỹ, yêu thích những câu lạc bộ thể thao khác nhau, còn nhiều thứ khác nữa. Chất keo kết dính sự khác biệt trong huynh đệ đoàn chúng ta là chính Tin Mừng. Do đó, chúng ta xác tín cách chắc chắn rằng bất kỳ điều gì đi ngược lại với các giá trị của Tin Mừng, của các giới răn, Luật và Hiến chương thì không thể biện minh cho bản thân rằng đó là do sự khác biệt bởi một nền văn hoá hay phong tục tập quán đặc thù được. Dẫu vậy, khi chúng ta sống với nhau, chúng ta có cơ hội chia sẻ và đón nhận những gì mà anh em khác mang đến cho huynh đệ đoàn với một thái độ tôn trọng và thấu hiểu.[7]
Fr. Pior Stanislawczyk, OFMConv.
Tổng thư ký đặc trách huấn luyện
Tổng thư ký đặc trách huấn luyện
Nguồn: https://www.ofmconv.net/en/patriottismo-e-diversita/
Chuyển ngữ: Giuse Lê Phạm Viết Hoàng, OFMConv.
Chuyển ngữ: Giuse Lê Phạm Viết Hoàng, OFMConv.
[1] Friars Minor Conventual, Constitutions, Rome 2019, art. 56 §2.
[2] Xc. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2199.
[3] Xc. P. Przesmycki, Patriotyzm w nauczaniu Kościoła katolickiego, https://cejsh.icm.edu.pl/cejsh/element/ bwmeta1. element.hdl_ 11089_2578/c/2008_02_przesmycki_195_203.pdf, December 5, 2022; Wikipedia, Patri -otyzm, https://pl.wikipedia.org/wiki/Patriotyzm# Rod -zaje_patriotyzmu.
[4] Xc. Encyklopedia PWN, Nacjonalizm, https://encyklopedia.pwn.pl/haslo/nacjonalizm;3945094.html.Decem - ber 13, 2022.
[5] Xc. A. Komendera, Stanisław Ossowski o patriotyzmie i kosmopolityzmie, Annates Academiae Paedagogicae Cracoviensi, Studia Sociologica I, 2006, https: https://rep.up.krakow.pl/xmlui/bitstream/handle/11716/7389/ AF035–03–Stanislaw-Ossowski–Komendera.pdf?sequence=1&isAllowed=y, December 20, 2022.
[6] Xc. Zbiór Asyski. Wydarzenia z życia świętego Franciszka opowiedziane przez jego pierwszych towarzyszy, tł. P. J. Nowak, in: Źródła franciszkańskie, edited by R. Prejs, Z. Kijas, Cracow 2008, pp. 1507-1669, no. 5.
[7] Xc. Friars Minor Conventual, Franciscan Discipleship, Rome 2022, no. 21.