Giữa một thành phố náo nhiệt có một học viện mang tên Phanxicô yên bình, giữa những sinh viên đang tìm kiếm sự khôn ngoan lại có những con người đã hoàn tất cuộc đời, các ngài nằm lặng nơi một góc sân trường. Trong cái hối hả vẫn có cái yên tĩnh, trong cái tiến lên vẫn có cái đứng lại, nơi những người đã khuất, các ngài để lại cho người sống một bài học để sống và để chết.

Chết là một huyền nhiệm chỉ có thể hiểu qua kinh nghiệm. Người ta định nghĩa: chết là khi các chức năng cơ thể ngừng hoạt động, là hết, là bước sang thế giới khác, hay là sự chia ly giữa người với người. Giới trẻ lại hình dung thần chết như ông lão gầy guộc, khoác áo đen, cầm lưỡi hái. Kierkegaard đã đưa ra một nhận định: “cái chết đối với tuổi trẻ, chỉ là một khái niệm khách quan; nó chỉ trở nên thật sự “cho tôi” nơi người già và kẻ sắp chết”.1 Trước cái chết, cả người ra đi lẫn kẻ ở lại đều thinh lặng: thinh lặng vì sợ, vì đau, hay vì bàng hoàng. Trong thinh lặng ấy, con người nhận ra mình nhỏ bé trước huyền nhiệm sự chết. Chính sự đảo lộn nội tâm này mở ra một thế giới quan mới, giúp họ nhìn lại ý nghĩa của sự sống. Heidegger cho rằng con người là “hiện-hữu-hướng-về-cái-chết”.2 Mỗi người hiện diện như một Dasein – một “hữu-có-đó” giữa thế giới, nó bị “quăng ném” vào đời trong sự bấp bênh. Ta không chọn được khi sinh ra, cũng chẳng quyết định được khi nào chết đi. Chính trong sự bất định ấy, con người lo âu, trăn trở, tìm kiếm ý nghĩa cho hiện hữu của mình. Càng dấn sâu vào huyền nhiệm ấy, con người càng nhận ra lời mời gọi của Chúa Giêsu giữa bão tố cuộc đời: “Đừng sợ” (Lc 15,10).
Con người luôn phải đối diện với những thực tại trong cuộc sống, trẻ lo tìm tri thức, trung lo tìm tiền của, già lại tìm sức khỏe, bên cạnh đó là những cái phải tránh như các tệ nạn, bệnh tật…cũng có những thứ mà con người ai cũng muốn tránh mà chẳng ai tránh được đó là cái chết. Người ta đã phải thốt lên: “ai cũng phải chết”, cái chết là một thực tại mà mọi người đều phải đối mặt và đón lấy. Trong mái trường học viện Phanxicô, nơi có những hàng cây cao phủ bóng, chị gió vẫn ngày ngày dạo chơi với những tia nắng ấm áp. Chính nơi đó, hạt mầm tri thức của biết bao lớp tu sĩ sinh viên vẫn ngày ngày được lớn lên.
Trong nơi đó, những lời kinh vẫn nguyện, những thánh lễ vẫn dâng, đó là một sự yên bình giữa lòng thành phố nhộn phịp. Tuy nhiên, nơi mái trường rộn rã và linh thiêng ấy cũng có một khoảng lặng cho các tu sĩ nghé thăm, nơi sự chết trở nên thực tại, đó là nơi các em thai nhi và các tu sĩ đang an nghỉ để đợi ngày phục sinh. Đứng lặng trước hàng cây cao vút rợp bóng như những cánh tay ôm lấy khu vườn, trên một thảm cỏ xanh mướt là những nấm mồ của các bậc tiền nhân, những người cũng đã một đời dâng mình, một đời phục vụ, một đời sống cho lý tưởng hèn mọn, nay các ngài cũng đã nằm lặng để đợi tôi, đợi anh đến nguyện một lời kinh. Tiến sâu hơn nữa vào chính giữa, Giữa căn phòng nhỏ, những ngọn đèn và hương khói khẽ bay. Ở đó, các em thai nhi cũng đang yên nghỉ, như muốn thì thầm một lời: ‘Mẹ ơi, xin đừng bỏ con’. Ngay những bước chân đầu tiên của ngày mới, khi tiến vào khuôn viên trường học đã có nhũng tu sĩ lặng thầm, sải những bước chân yên ả với tràng mân côi, các thầy âm thầm tiến lại để nguyện cho người đã khuất một câu kinh, để nghĩ về sự chết của mình hay cũng để thấy được sự phù vân của cuộc đời. Trần Thái Đỉnh nói: “Triết học hiện sinh là triết học về ý nghĩa của cuộc nhân sinh, và nói tắt là triết học về con người”.3 Cái “lo âu hiện sinh” xuất phát từ ý thức rằng ta hữu hạn, phải tự quyết định đời mình và không thể trốn tránh cái chết. Con người lo âu không chỉ vì cái chết thể lý, mà còn vì những “cái chết tinh thần”: mất niềm tin, cảm xúc, ý chí và tri thức, khi tâm hồn chai lỳ, không còn rung động hay khao khát sống thật, chết là một khả thể mà mọi người đều phải đối măt: “Hãy sống cuộc sống của bạn, vì bạn sẽ chết cái chết của chính bạn”.4 Tuy nhiên, lo âu không chỉ là bóng tối mà còn là điểm khởi đầu của tỉnh thức, là động lực để con người vươn lên vượt qua sự tầm thường và tìm lại chính mình.
Thật như Góp nói: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Ðức Chúa đã ban cho, Ðức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Ðức Chúa!” (G 1,21). Đó là tâm tình của người luôn phó thác, tin tưởng và cậy trông nơi Chúa, để trước những nghịch cảnh, trước những niềm vui, nỗi buồn mọi người đều tin tưởng tạ ơn, tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Để sự chết không còn là một thực tai đáng sợ, cha Thánh Phanxicô đã gọi sự chết bằng một cái tên “chị chết”, một người chị hiền hòa để rồi nhờ chị con người tiến đến với Đấng Tối Cao. Không ai là người mà không phải chết, chết sẽ trở nên thật sự “cho tôi” nơi người già và kẻ sắp chết, vì thế đón nhận sự chết là một điều tất yếu trong cuộc đời. Tuy nhiên, cha Thánh Phanxicô còn nhắc đến một cái chết khác mà mỗi người đều phải dè chừng, đó là cái chết thứ hai: “phúc thay ai trong giờ chị (chết) tới, Thánh ý Ngài vẫn quyết tuân theo, chết thứ hai không làm hại được”.
Giữa sân trường Phanxicô, nơi sự sống và cái chết giao thoa, con người học được cách sống trọn vẹn từng ngày trong niềm hy vọng và ánh sáng phục sinh. Chính nơi mái trường tri thức ấy, việc tìm kiếm chân lý không chỉ là con đường dẫn con người đến với Thiên Chúa, mà còn là hành trình giúp anh em nhận ra giới hạn của kiếp người, nơi sự chết trở thành lời nhắc nhở âm thầm nhưng mạnh mẽ. Vinh quang trần thế hay danh vọng học vấn rồi cũng sẽ qua đi, chỉ còn lại cuộc lữ hành cuối cùng mà ai cũng phải bước vào – bước qua “cánh cửa” của cái chết để trở về cùng Thiên Chúa.
Con người luôn phải đối diện với những thực tại trong cuộc sống, trẻ lo tìm tri thức, trung lo tìm tiền của, già lại tìm sức khỏe, bên cạnh đó là những cái phải tránh như các tệ nạn, bệnh tật…cũng có những thứ mà con người ai cũng muốn tránh mà chẳng ai tránh được đó là cái chết. Người ta đã phải thốt lên: “ai cũng phải chết”, cái chết là một thực tại mà mọi người đều phải đối mặt và đón lấy. Trong mái trường học viện Phanxicô, nơi có những hàng cây cao phủ bóng, chị gió vẫn ngày ngày dạo chơi với những tia nắng ấm áp. Chính nơi đó, hạt mầm tri thức của biết bao lớp tu sĩ sinh viên vẫn ngày ngày được lớn lên.
Trong nơi đó, những lời kinh vẫn nguyện, những thánh lễ vẫn dâng, đó là một sự yên bình giữa lòng thành phố nhộn phịp. Tuy nhiên, nơi mái trường rộn rã và linh thiêng ấy cũng có một khoảng lặng cho các tu sĩ nghé thăm, nơi sự chết trở nên thực tại, đó là nơi các em thai nhi và các tu sĩ đang an nghỉ để đợi ngày phục sinh. Đứng lặng trước hàng cây cao vút rợp bóng như những cánh tay ôm lấy khu vườn, trên một thảm cỏ xanh mướt là những nấm mồ của các bậc tiền nhân, những người cũng đã một đời dâng mình, một đời phục vụ, một đời sống cho lý tưởng hèn mọn, nay các ngài cũng đã nằm lặng để đợi tôi, đợi anh đến nguyện một lời kinh. Tiến sâu hơn nữa vào chính giữa, Giữa căn phòng nhỏ, những ngọn đèn và hương khói khẽ bay. Ở đó, các em thai nhi cũng đang yên nghỉ, như muốn thì thầm một lời: ‘Mẹ ơi, xin đừng bỏ con’. Ngay những bước chân đầu tiên của ngày mới, khi tiến vào khuôn viên trường học đã có nhũng tu sĩ lặng thầm, sải những bước chân yên ả với tràng mân côi, các thầy âm thầm tiến lại để nguyện cho người đã khuất một câu kinh, để nghĩ về sự chết của mình hay cũng để thấy được sự phù vân của cuộc đời. Trần Thái Đỉnh nói: “Triết học hiện sinh là triết học về ý nghĩa của cuộc nhân sinh, và nói tắt là triết học về con người”.3 Cái “lo âu hiện sinh” xuất phát từ ý thức rằng ta hữu hạn, phải tự quyết định đời mình và không thể trốn tránh cái chết. Con người lo âu không chỉ vì cái chết thể lý, mà còn vì những “cái chết tinh thần”: mất niềm tin, cảm xúc, ý chí và tri thức, khi tâm hồn chai lỳ, không còn rung động hay khao khát sống thật, chết là một khả thể mà mọi người đều phải đối măt: “Hãy sống cuộc sống của bạn, vì bạn sẽ chết cái chết của chính bạn”.4 Tuy nhiên, lo âu không chỉ là bóng tối mà còn là điểm khởi đầu của tỉnh thức, là động lực để con người vươn lên vượt qua sự tầm thường và tìm lại chính mình.
Thật như Góp nói: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Ðức Chúa đã ban cho, Ðức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Ðức Chúa!” (G 1,21). Đó là tâm tình của người luôn phó thác, tin tưởng và cậy trông nơi Chúa, để trước những nghịch cảnh, trước những niềm vui, nỗi buồn mọi người đều tin tưởng tạ ơn, tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Để sự chết không còn là một thực tai đáng sợ, cha Thánh Phanxicô đã gọi sự chết bằng một cái tên “chị chết”, một người chị hiền hòa để rồi nhờ chị con người tiến đến với Đấng Tối Cao. Không ai là người mà không phải chết, chết sẽ trở nên thật sự “cho tôi” nơi người già và kẻ sắp chết, vì thế đón nhận sự chết là một điều tất yếu trong cuộc đời. Tuy nhiên, cha Thánh Phanxicô còn nhắc đến một cái chết khác mà mỗi người đều phải dè chừng, đó là cái chết thứ hai: “phúc thay ai trong giờ chị (chết) tới, Thánh ý Ngài vẫn quyết tuân theo, chết thứ hai không làm hại được”.
Giữa sân trường Phanxicô, nơi sự sống và cái chết giao thoa, con người học được cách sống trọn vẹn từng ngày trong niềm hy vọng và ánh sáng phục sinh. Chính nơi mái trường tri thức ấy, việc tìm kiếm chân lý không chỉ là con đường dẫn con người đến với Thiên Chúa, mà còn là hành trình giúp anh em nhận ra giới hạn của kiếp người, nơi sự chết trở thành lời nhắc nhở âm thầm nhưng mạnh mẽ. Vinh quang trần thế hay danh vọng học vấn rồi cũng sẽ qua đi, chỉ còn lại cuộc lữ hành cuối cùng mà ai cũng phải bước vào – bước qua “cánh cửa” của cái chết để trở về cùng Thiên Chúa.
John B. Thoan
________________________
1. SØREN KIERKEGAARD, Kính Sợ Và Run Rẩy, dịch giả Nguyễn Nguyên Phước, Nxb Hồng Đức, 2023, tr. 8.
2. Martin Heidegger, Hữu thể và Thời gian, Trần Công Tiến dịch, (Hà Nội: NXB Quê Hương, 1973), tr 40.
3. TRẦN THÁI ĐỈNH, Triết Học Hiện Sinh Khảo Luận, Nxb Thời Mới,1967, tr. 22.
4. Thuốc 2021, “Châm ngôn tuyệt vời về cái chết và sự thương tiếc từ các nền văn hóa khác nhau,” CHâM NGôN TUYỆT VỜI VỀ CáI CHẾT Và SỰ THƯƠNG TIẾC TỪ CáC NỀN VĂN HóA KHáC NHAU - THUỐC - 2021 (cc-inc.org).