Đức Hồng Y Karol Wojtyla - sau này là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II - Tổng Giám Mục thành Cracovie Ba Lan, đã chủ tọa một cuộc họp báo về Cha Maximilien Kolbe Dòng thánh Phanxicô, sinh quán Ba Lan, được tuyên phong chân phước Chúa nhật 17-10-1971 tại Rôma, do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI chủ lễ.

Hơn 30.000 giáo hữu từ khắp thế giới, nhất là từ Ba Lan, Đức, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã đứng chật Đền Thờ Thánh Phêrô, với sự hiện diện của các nghị phụ thượng Hội Đồng Giám mục thế giới, đã khiến cho nghi lễ phong Chân phước này có một ý nghĩa đặc biệt.

Trong bài giảng của buổi lễ, Đức Phaolô VI đã gọi Đấng Tân Chân phước là một tông đồ, một linh mục và là một của lễ Hy sinh.

Ông Phanxicô Gajowniczek, người đã được chân phước Maximilianô Kolbe thế mạng chết thay cho, cũng có mặt trong buổi lễ và rước lễ sốt sắng.

Đức Hồng y tuyên bố: “Đây không phải là một việc ngẫu nhiên, mà là một dấu chỉ của thời đại”. Cha Kolbe chết năm 1941, trong một ngục hầm của trại tập trung ở Auschwitz, cha được tuyên phong Chân phước giữa khóa họp của Thượng Hội Đồng Giám mục lần thứ III.

Trong một thời đại mà nhiều linh mục tự hỏi và muốn biết thân phận, biết “căn cước” của mình thế nào, thì Kolbe đã phúc đáp minh bạch: “Không phải bằng một bài trình bày thần học, mà bằng đời sống và sự chết của mình”. Cha muốn hình ảnh Thầy Chí Thánh căn cứ vào tình yêu Cha đã kết hợp với Đấng Kittô.

Đức Hồng Y Wojtyla nhấn mạnh: “Trong thế giới hằn thù này, tên “phạm nhân” mang số 19.670 kia đã chiến thắng, một chiến thắng khó khăn. Chiến thắng của tình yêu tha thứ. Chứng từ của cha được phơi bày một cách nóng hổi, ở ngay thời hiện tại này. Thời đại mà tình yêu bị bóp méo, bị giày đạp xuống dưới gót chân, một thời đại chỉ thấy những hằn thù về chủng tộc, về chia rẽ quốc gia”.

Đức Hồng Y kết luận: “Lối tu kín của cha và công cuộc truyền giáo bằng báo chí đã làm cho cha trở nên một trong những vị tu sĩ chiêm niệm thứ nhất của thời đại”.

Việc truyền phong Chân phước cho cha Kolbe là một việc mới lạ trong lịch sử Giáo hội từ 500 năm trở lại đây. Lần đầu tiên, một Đức Giáo Hoàng tuyên phong cho một vị Chân phước mới. Trước đây, công việc đó do Ủy Vụ Trưởng Bộ phong Thánh tuyên bố Đoản sắc công nhận vị Chân phước tại Thánh Đường Thánh Phêrô, rồi đến chiều Đức Giáo Hoàng mới tới Vương Cung Thánh Đường để tôn kính vị Tân Chân phước, Chúa nhật 17-10-1971 vừa qua, chính Đức Phaolô VI đích thân tuyên bố Chân phước cho Cha Maximilianô Kolbe.

Cha Maximilianô Kolbe trước đây đã được công nhận là “Tôi Tớ Chúa”. Việc truyền phong chân phước là một giai đoạn để đưa đến tuyên thánh.

Sắc lệnh về Tụng Khoản Chân Phước do Đức Gioan XXIII ký ngày 16-3-1960, sắc lệnh nhận thức các đức tính anh hùng do Đức Phaolô VI ký ngày 30-1-1969.

Tôn sùng một vị chân phước không được trang trọng như một vị thánh, người ta không thể cung hiến cho vị chân phước một giáo phận, một thánh đường hay một bàn thờ riêng nào. Việc tôn sùng chỉ giới hạn trong một giáo phận, một tỉnh hay một dòng tu nào, muốn mở rộng địa hạt khác, phải có một sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng cho phép, và không bao giờ được mở rộng cho toàn thể Hội Thánh.

Để được phong chân phước, phải có hai phép lạ mà Hội Thánh công nhận. Nếu là tử đạo thì không cần phép lạ.

TIỂU SỬ CHÂN PHƯỚC MAXIMILIEN KOLBE.

“Việc như vậy, chúng tôi chưa từng thấy bao giờ”. Đó là lời chứng của các cảnh vệ trại tập trung Auschwitz, khi khai cung về cha Maximilianô Kolbe.

+ “Già rồi chẳng còn ích gì nữa”.

Cuối tháng bảy năm 1941. Một phạm nhân trốn thoát khỏi trại giam. Phạm nhân còn lại bất kỳ là ai phải chết thay. Xô đẩy xuống một hầm để rồi chết vì đói, vì khát, không cho ăn uống gì. Một người trong bọn 10 người là Phanxicô Gajowniszek kêu thất thanh: “Ôi, khổ cho vợ con tôi, tôi không còn bao giờ được thấy nữa!”. Tức thì xảy ra một việc chưa từng thấy bao giờ: trong bọn tù nhân, một tên lách ra khỏi đám, cha Maximilianô Kolbe, đến trước mặt một tên cảnh vệ khát máu: “Tôi muốn chết thay cho một trong bọn 10 người này”. Mọi người kinh ngạc, cha Kolbe nói tiếp: “Tôi già rồi chẳng ích gì cho ai! Còn anh Phanxicô Gajowniszek kia có vợ và nhiều con”. Anh cảnh vệ Fritsch khát máu kia rụng rời kinh hãi. Sau một phút yên lặng, anh chấp thuận đề nghị của cha Kolbe.

Cử chỉ anh hùng ấy đã bắt nguồn từ thuở niên thiếu của Chân phước. Chân phước là con một gia đình thợ dệt nghèo, ở vùng Lods, sinh ngày 7-10-1894, cậu Raymond không có tính nết thuần hóa: nóng nảy, quả đoán, táo bạo. Bà mẹ hết sức nhịn nhục, và một hôm thất vọng thở dài phải kêu lên: “Tội nghiệp cho con, sau này con sẽ làm gì hở con?…”

+ “Con chọn cả hai…”

Phiền sầu thấy mẹ đau khổ vì mình, cậu Raymond 10 tuổi vội vào nhà thờ cầu xin Đức Maria… “Con sẽ làm gì?” Chân phước kể tiếp: Bấy giờ Đức Trinh Nữ hiện ra với tôi, cầm hai vòng hoa, một trắng một đỏ. Đức Mẹ âu yếm nhìn tôi và hỏi tôi chọn cái nào. Vòng trắng chỉ tôi sẽ luôn luôn trong sạch, vòng đỏ bảo tôi sẽ tử đạo. Tôi liền trả lời Đức Trinh Nữ: “Con xin nhận cả hai”. Người mỉm cười và biến đi.

Từ ngày ấy trở đi, con người Raymond thay đổi hẳn. Bà mẹ Kolbe làm chứng điều đó, sau khi bà đã gạn hỏi con để biết bí mật trên: ‘Đức Mẹ hiện ra với Raymond, biến cải Raymond, tạo Raymond nên một trong những Tông đồ nhiệt thành bậc nhất của Giáo hội cận kim, và nên một đồng phẩm với Louis Marie Griginon de Monfort’.

Gia nhập Dòng Anh em hèn mọn Thánh Phanxicô tại Lvnov, Maximilianô Kolbe được gửi đi học tại Rôma về triết và thần học. Ngày 16-10-1917, Maximilianô cùng với sáu bạn thành lập Đoàn “Dân Quân của Đức Vô Nhiễm”, một hội đoàn tận hiến cho Đức Trinh Nữ và rao truyền lòng sùng kính Đức Maria dưới tước hiệu Vô Nhiễm.

Trở về Ba Lan, Maximilianô dạy thần học ở Cracovie trong vài năm. Đến năm 1922, cha truyền bá lòng tôn sùng Đức Mẹ, bằng cách xuất bản tờ nguyệt san “Hiệp sĩ của Đức Vô Nhiễm”. Ban đầu mỗi tháng phát hành 5.000 cuốn và biếu không. Đến năm 1939, tăng lên một triệu số mỗi kỳ. Từ năm 1927, nguyệt san in tại Niepokalonow, là một khu nhà Dòng chuyên lo tôn sùng Đức Mẹ do Cha Kolbe thành lập cách Varsovie, thủ đô Ba Lan, 40 cây số. Cha cũng cho xuất bản một nhật báo Công giáo, một tập san có định kỳ cho trẻ em, và một tạp chí bằng La ngữ riêng cho hàng linh mục trên thế giới truyền bá về Đức Maria.

TẠI NHẬT BẢN

Được tin Đức Thánh Cha Piô XII khuyến khích, cha Kolbe sang Nhật Bản. Tiền bạc không có, ngôn ngữ bản xứ không thông, chỉ có đức tin và lòng trông cậy vững vàng vào Đức Trinh Nữ. Cha Kolbe lập ở gần Nagasaki một trung tâm tôn sùng Đức Mẹ, lấy tên là “Vô Nhiễm Hoa Viên”, cha cho phát hành một tập san về Đức Mẹ có tính cách truyền giáo, và sau này tập san trở nên một trong những tạp chí Công giáo phổ cập nhất tại Nhật Bản.

Cha Maximilianô Kolbe còn trù tính cùng với giáo quyền các xứ Ấn Độ, Cao Ly, Trung Hoa, sẽ thiết lập nhiều cơ sở khác, thế mà chưa thi hành được… Cha mơ ước với báo chí, cha có thể tiếp xúc được hàng tỷ linh hồn…

DƯỚI HẦM TỬ THẦN

Trong ba năm từ 1936-1939, cha Kolbe trở lại hoạt động tại trung tâm Niepokalanow, một nơi chứa 762 tu sĩ, trong đó có bảy vị linh mục, thật là một nhà dòng đông nhất thế giới… Trung tâm chuyên lo truyền bá lòng tôn sùng Đức Mẹ, nên được rất nhiều ơn kêu gọi, hàng năm có tới hàng ngàn người xin ứng tuyển, cha chỉ lựa chọn lấy một số người đích đáng: ba bốn chục người.

Toàn xứ Ba Lan đều biết tiếng cha Kolbe. Khởi đầu đệ II thế chiến, Ba Lan bị Đức quốc xã xâm chiếm. Cha bị đi đày lần thứ nhất vào mùa thu năm 1939. Lần thứ hai ngày 27-2-1941 cha bị bắt và giam ở ngục thất Pawiak, rồi chuyển sang trại tập trung Auschwitz, chết đói, chết khát, hôm áp lễ Mông Triệu trong “Hầm Tử Thần” sau 15 ngày hấp hối. Các cảnh vệ trại tập trung đã minh chứng nhiều việc lạ lùng về cha Kolbe.

Cha đã giúp cho chín bạn tử tù chết bằng yên. Ở ngoài hầm, người ta nghe thấy họ ca hát sung sướng được đi tới đời sống đích thực…

Cha Maximilianô Kolbe được liệt vào hạng các vị Tông đồ đại danh về lòng Tôn sùng Đức Mẹ.

Ngày 17-10-1971, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nâng ngài lên hàng Chân phước, và Đức Gioan Phaolô II đã ghi tên ngài vào sổ bộ hiển thánh.

http://tinmung.net/